Năm | 1991 |
---|---|
Trọng lượng | 3000gr |
Loại Sản Phẩm | Bìa cứng |
Kích Thước | 24x16cm |
Số Trang | 1211 |
Tác Giả | HT Thích Minh Châu |
Nhà Xuất Bản | Giáo hội Phật giáo Việt Nam |
Tăng nhất A-hàm là một trong bốn bộ kinh văn A-hàm của Kinh tạng Phạn ngữ. Là một kinh văn quan trọng trong Kinh điển Phật giáo sơ kỳ, sau đó được tập thành trong Đại tạng kinh, Tăng nhất A-hàm hiện chỉ còn bản dịch Hán văn. Tên "Tăng nhất" nhằm chỉ đến cánh đánh số tăng tuần tự các bài giảng của nó
Toàn bộ kinh văn chứa đựng hầu hết mọi khía cạnh của cuộc sống, từ sự phản ánh hoàn cảnh xã hội Ấn Độ hồi thế kỷ thứ VI trước Tây lịch, cho đến những tập tục, tư tưởng triết học, tôn giáo, giai cấp... Đặc biệt, A Hàm còn giữ những bài pháp thoại mà đọc lại chúng ta có cảm giác như được nghe chính âm thanh vi diệu của Đức Thế Tôn đang chuyển Pháp luân, đó là những nguyên tắc hành trì, những phương pháp tu tập, những nghệ thuật sống đưa đến hạnh phúc, an lạc và hòa bình cho xã hội trong mọi thời đại.
Tăng nhất A-hàm nói riêng, bốn bộ A-hàm nói chung, là những bản dịch từ Phạn sang Hán trong thời kỳ đầu của quá trình truyền thừa mạng mạch Phật pháp vào đất Trung Nguyên của những Tỳ-kheo mang chí nguyện “hoằng pháp vi gia vụ, lợi sanh vi bản hoài”.
KINH TĂNG NHẤT A HÀM Việt dịch: Hòa thượng Thích Thanh Từ
Hình thức Đại hội, cũng như nội dung kết tập, theo ghi chép trong các tài liệu Hán tạng và Pāli hiện có, trên đại thể đều nhất trí. Chính do điều này mà có thể tin tưởng rằng Thánh điển truyền thừa riêng biệt của các bộ phái xuất xứ từ một hệ nguyên thủy và được thừa nhận bởi đại đa số là chính thống. Tất nhiên một số khác biệt phải có, theo cách nhìn của mỗi bộ phái. Điểm khác biệt quan trọng cần nói ở đây, trước hết, là thứ tự các kinh. Một cách tổng quát, có hai loại thứ tự được ghi nhận:
(1) Trường, Trung, Tạp, Tăng nhất: thứ tự này được ghi chép trong Luật tạng của các bộ Ngũ phần (Hóa địa bộ), Ma-ha-tăng-kỳ (Đại chúng bộ), Tứ phần (Đàm-vô-đức), và Pāli.
2) Tạp (Tương ưng), Trung, Trường, Tăng nhất: thứ tự ghi bởi Tì-nại- da tạp sự của Căn bản thuyết nhất thiết hữu bộ. Trung gian còn có những thay đổi.
Thứ tự nêu trên, luật Tứ phần, thuộc Pháp tạng bộ (Dharmagupta), chép như sau: “Tập hợp các kinh dài thành Trường A-hàm. Tất cả các kinh vừa, thành Trung A-hàm. Từ một sự đến mười sự. Từ mười sự đến mười một sự, thành Tăng nhất A-hàm. Tập hợp các kinh liên hệ Tỷ-kheo, Tỷ- kheo-ni, Ưu-bà-tắc, Ưu-bà-di, chư Thiên, Đế Thích, Ma, Phạm vương, thành Tạp A-hàm. Như thị kinh, Sanh kinh, Bản kinh, Thiện nhân duyễn kinh, Phương đẳng kinh, Vị tằng hữu kinh, Thí dụ kinh, Ưu-bà-đề-xá kinh, Cú nghĩa kinh, Ba-la-diên kinh, Tạp nan kinh, Thánh kệ kinh; những kinh như vậy tập hợp thành Tạp tạng". Thứ tự bộ loại này hoàn toàn phù hợp với Pāli, gồm năm tạng A-hàm tương đương năm bộ Nikāya.
Luật Ngũ phần, thuộc Hóa địa bộ (Mahīśasāka), ghi nhận thứ tự cũng tương tự, gồm năm tạng A-hàm, nhưng trong đó có chi tiết không nhất trí, chỉ về hình thức kết tập. Đại Ca-diếp hỏi A-nan câu hỏi đầu tiên: Phật thuyết kinh Tăng nhất ở đâu? Kinh Tăng thập ở đâu? Tiếp đến, kinh Đại nhân duyên, Tăng-kỳ-đà, Sa-môn quả... Do chi tiết này mà nghi vấn được đặt thành, phải chăng theo đây Tăng nhất A-hàm được kết tập trước tiên, rồi mới đến Trường A-hàm. Sự đảo lộn thứ tự như vậy tất do phát triển về sau. Nhưng nghi vấn này không hoàn toàn chính xác. Vì tăng nhất đến tăng thập ở đây đều thuộc trong Trường A- hàm, mà bản Hán dịch hiện tại vẫn còn thấy.